QĐND - Đi qua năm tháng, giữa cơn lốc đô thị hóa ngày một nhanh và mạnh hơn, nhiều biểu tượng văn hóa của làng quê Bắc Bộ xưa dần dần bị xóa mờ. Giếng cổ là một trong số đó. Xứ Đoài (Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội) là nơi còn lưu giữ nhiều giếng làng có giá trị, tuy nhiên, trước những biến cố của thời gian, nhiều giếng làng cổ bị biến dạng, thậm chí là biến mất hoàn toàn.
Mảnh ghép của không gian làng quê
Xứ Đoài xưa hầu như xóm nào, làng nào cũng có giếng. Tiêu biểu nhất có thể kể đến các vùng như: Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì… Những cái giếng được đào chủ yếu với mục đích lấy nước phục vụ đời sống người dân. Theo thời gian, gắn liền với những biến động, những sự kiện diễn ra trong xóm làng, đặc biệt là đời sống tâm linh, tín ngưỡng của người dân, giếng làng không đơn thuần là nơi lấy nước mà trở thành một vật thể sống động, chứng tích của lịch sử, văn hóa.
Người dân địa phương quan niệm, cũng như sông, như núi, mỗi cái giếng đều có một vị thần cai quản. Do đó, hầu hết giếng làng ở xứ Đoài đều có miếu thờ hoặc ít nhất là có một bát hương đặt cạnh. Thường vào ngày đầu tháng, ngày rằm hay những lúc làng có việc cần cầu khấn thì dân làng đều đến thắp hương, đặt lễ tại các miếu này. Ý thức về sự linh thiêng của giếng, dân làng luôn bày tỏ thái độ tôn trọng, giữ gìn, không đập phá, làm bẩn hay thay đổi cảnh quan xung quanh giếng.
Như vậy, giếng trở thành một phần quan trọng trong văn hóa tín ngưỡng của làng quê. Bên cạnh đó, vị trí của giếng còn cho thấy, quan niệm về các yếu tố phong thủy của ông cha ta. Ví như làng Thượng Hội (xã Tân Hội, huyện Đan Phượng) có ba giếng cổ ở đầu làng, giữa làng và cuối làng, đã tồn tại hàng trăm năm. Mỗi giếng lại có một hình dáng khác nhau. Giếng hình vuông ở đầu làng tượng trưng cho đất mẹ, giếng hình tròn ở giữa làng tượng trưng cho trời và giếng bầu dục ở cuối làng tượng trưng cho con người. Theo các cụ cao niên trong làng thì ba giếng cổ trong làng biểu tượng cho thiên-địa-nhân, chân-thiện-mỹ. Ngoài ra, với vị trí đắc địa về phong thủy, giếng được xem là nơi tụ thủy, tụ phúc của cả làng.
Kỹ thuật xây dựng và lối kiến trúc cũng là một trong những yếu tố cần được quan tâm, bảo tồn khi nghiên cứu về giếng cổ. Ở xứ Đoài, các giếng cổ không đồng nhất về cách thức xây dựng, giếng ở mỗi vùng lại có đặc điểm khác nhau về vật liệu, hình dáng, độ sâu… Các vùng trung du như Ba Vì, Thạch Thất chủ yếu là giếng đá ong; ở Đan Phượng phần nhiều là giếng đất… Riêng ở Hoài Đức, cụ thể là vùng Kẻ Giá xưa (nay thuộc hai xã Yên Sở, Đắc Sở), tương truyền có 73 giếng cổ (nay chỉ còn gần 20 giếng) được cho là mang đậm dấu tích của nền văn hóa Chăm Pa. Cụ thể, các giếng được xây với lối kiến trúc tương tự nhau. Giếng sâu từ 4-5m, dưới đáy có hai phiến gỗ lim lớn làm nền, thành giếng bao gồm nhiều lớp đá được xếp chồng khít nhau. Mặc dù không có hồ vữa nhưng lại rất chắc chắn, cho đến nay, những giếng này vẫn không hề bị hư hỏng mà nước vẫn trong xanh.
 |
Hình dạng hiện nay của giếng tròn, làng Thượng Hội |
Nói về giá trị của giếng cổ, ngoài những yếu tố trên, cụ Nguyễn Bá Hân-một người có nhiều năm nghiên cứu về văn hóa vùng Kẻ Giá cho rằng, không chỉ dừng lại ở các yếu tố vật thể, giá trị của giếng cổ còn thể hiện qua các yếu tố văn hóa phi vật thể. Giếng cổ từ xưa đã gắn liền với phong tục, tập quán của người dân sinh sống tại mỗi vùng. Xung quanh miệng giếng có vô vàn những những sự tích, truyền thuyết, điển tích văn hóa dân gian, ca dao, hò vè… mà giếng là cái cớ, là nhân chứng, nhân vật không thể thiếu. Có thể nói, giếng cổ là chiếc gương soi, là mảnh ghép ngàn đời của hồn quê.
Hồn cốt phôi pha
Khi nhắc đến văn hóa làng quê Bắc Bộ thì bộ ba hình ảnh “cây đa, giếng nước, sân đình” luôn đi cùng với nhau. Nhưng có một điều đáng nói là trong khi các đình cổ, cây cổ đều có tên trong danh mục kiểm kê di tích thì giếng cổ hầu như bị gạt ra ngoài. Hiện nay, bên cạnh một số giếng cổ thuộc khuôn viên các đình, chùa, công trình văn hóa được bảo tồn có hiệu quả vẫn còn rất nhiều giếng làng có niên đại hàng trăm năm, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa bị bỏ quên, thậm chí là bị phá hoại. Ví như ba giếng cổ ở làng Thượng Hội, mặc dù vẫn còn tồn tại đến nay nhưng đều đã bị biến dạng, tiêu biểu nhất là giếng tròn tượng trưng cho trời ở giữa làng có diện tích hơn 200m2. Do quá trình nông thôn mới, đường làng phải mở rộng nên một phần giếng cổ bị lấp, hiện tại, giếng có hình bán nguyệt và trở thành nơi cho trẻ con nô đùa, tắm rửa mỗi khi hè về. Giếng bầu dục hay còn gọi là giếng Soi ở cuối làng có thời gian bị tận dụng làm ao thả cá, cảnh quan xung quanh hầu như bị biến dạng.
Cũng cùng chung số phận, 73 giếng cổ ở vùng Kẻ Giá nay chỉ còn lại khoảng 20 giếng. Các giếng chủ yếu bị lấp đi trong quá trình làng, xã bê tông hóa, mở rộng giao thông. Các giếng còn lại đa số đều được đậy nắp và không còn sử dụng. Ông Nguyễn Hữu Bình-Trưởng thôn 2, xã Yên Sở cho biết: “Giếng làng Yên Sở đã tồn tại từ rất lâu. Trước đây, số lượng giếng trong làng rất lớn nhưng về sau, giếng bị lấp rất nhiều do làm đường, xây nhà… Các giếng cổ còn lại của làng hiện nay cũng không còn được sử dụng do nguồn nước không sạch như trước kia”. Một điều đáng tiếc nữa là các giếng hiện nay không giữ được hình dáng cổ kính như xưa mà hầu hết hình dạng, kích cỡ, vật liệu xây thành giếng đều bị thay đổi qua mỗi lần người dân trùng tu, kè lại giếng.
Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Minh Nhương, hiện là Phó chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội, là một người có nhiều công trình nghiên cứu về giếng cổ chia sẻ: “Giếng làng là một trong những thành tố quan trọng của không gian văn hóa làng quê xứ Đoài. Đáng buồn thay, hiện nay, nhiều giếng cổ không được nhìn nhận đúng về giá trị, từ đó mà việc bảo tồn chưa hiệu quả”.
Thiết nghĩ, cần có sự vào cuộc của các nhà văn hóa, các nhà khảo cổ để tìm ra giải pháp bảo tồn những giếng cổ có giá trị văn hóa, để thế hệ mai sau không quên rằng trong không gian làng Việt xưa ấy, còn có một chiếc giếng cổ chứa đựng hồn làng linh thiêng.
Bài và ảnh: THẢO SANG