QĐND Online - “Gió đưa cành trúc la đà/Tiếng chuông Trấn Vũ canh gà Thọ Xương/Mịt mù khói tỏa ngàn sương/Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ”. Nhịp chày Yên Thái trong câu ca dao trữ tình xa xưa ấy chính là nhịp chày giã dó làm giấy của người dân vùng Bưởi (Hà Nội).

Một nghệ nhân đang duy trì việc làm giấy dó hiện nay.

Qua bao đời, nghề làm giấy ở Bưởi ngày càng phát triển, thịnh đạt, trở thành một trung tâm sản xuất giấy lớn của cả nước thời xưa mà người dân quen gọi là “giấy Bưởi”. Thực ra không phải cả làng Bưởi làm giấy mà chỉ có 3 thôn làm là Yên Thái, Hồ Khẩu và Đông Xã. Các làng khác chủ yếu là sản xuất các công cụ làm giấy: Xuân Đỉnh làm liềm seo giấy, thép cán giấy; Cổ Nhuế đan phên, phanh, chõng và sọt. Riêng loại rá to đãi bột thì phải mua tận làng Nam Quán, huyện Phú Xuyên (tỉnh Hà Tây cũ). 3 thôn này về sau thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận nhưng người ta vẫn quen gọi gộp chung là Kẻ Bưởi.

Để có nguyên liệu làm giấy, người thợ làm giấy phải tự mình lên tận các tỉnh miền núi mua dó về. Về sau, dân Nghĩa Lộ, Thái Nguyên, Yên Bái… đem dó về xuôi bán, kèm theo những cốn bè dó có gỗ mõ. Công việc thật phức tạp và vất vả. Người thợ giấy phải thuê thợ mộc bào vụn gỗ ra rồi ngâm nước, lấy nhựa gỗ pha trộn vào bột dó để giấy khỏi dính vào nhau. Sau khi bóc vỏ dó phân thành loại tốt, xấu, phải giã dó thành bột. Những người đàn ông đánh trần, cầm cái chày gỗ nặng đến vài chục cân nện vào chiếc cối đá to. Chừng gà gáy canh tư, tiếng chày giã dó vang lên khắp cả làng cho đến gần trưa. Từ tháng bảy đến cuối năm, việc càng bề bộn hơn. Làng xóm luôn náo nhiệt với hàng trăm thứ âm thanh. Men theo làng Yên Thái là con sông Tô Lịch, quanh năm nhộn nhịp các cô gái ra đãi bìa dó. Từ sáng tinh mơ, người ta đã nghe vọng lên khúc hát trong trẻo của các cô gái: “Người ta bán vạn buôn ngàn/Em đây làm giấy cơ hàn vẫn tươi/Dám xin ai đó chớ cười/Vì em làm giấy cho người viết thơ”…

Nhờ có nghề làm giấy phát đạt mà Kẻ Bưởi từ nguyên sơ là vùng lầy trũng, bãi tha ma trở thành một vùng dân cư sầm uất, trù phú, ngày đêm rộn rã tiếng chày, tiếng liềm seo, tiếng khung dệt. Khách thập phương vào kinh thành không thể không ghé chân thưởng ngoạn mảnh đất trù phú soi bóng mặt gương Tây Hồ này.

Chợ Bưởi mỗi tháng họp 6 phiên. Đặc biệt, trong chợ có một dãy nhà gồm 15 gian chuyên bán “giấy Bưởi”. Ngoài những phiên họp thông thường, hàng tháng còn có 6 phiên chợ vào ngày 2 và ngày 7 chỉ bán toàn giấy: Giấy moi, giấy bản, giấy phết quạt, giấy ngòi pháo, giấy lĩnh. Người ta mua giấy lĩnh để chép gia phả, ngọc phả. Các nhà in cũng dùng giấy lĩnh để in những cuốn sách quý. Giấy lĩnh rất bền, giữ nét mực được lâu. Có nhiều cuốn gia phả, ngọc phả để hàng mấy trăm năm vẫn giữ nguyên màu sắc giấy vàng nhạt và nét mực nho đen thẫm. Các hiệu buôn về đây mua giấy chuyển đi khắp nơi. Ba mươi sáu phố phường Hà Nội đều bán giấy Bưởi. Giấy Bưởi còn theo những chuyến đò, chuyến tàu vào bán tận Thanh, Nghệ, Quảng Bình, Quảng Ngãi và cả cố đô Huế.

Giấy sắc, hay còn gọi giấy Long Đằng là loại giấy tốt nhất. Loại giấy này nhà vua dùng để ban sắc thần. Làng Nghè (Từ Liêm) được đặc ân vua giao cho làm. Mỗi lần có lệnh vua ban xuống, thợ giấy vùng Bưởi sản xuất giấy mộc, rồi làng Nghè nhận về quét bột hòe cho giấy dày và vàng đẫm. Những người thợ khéo tay thuộc gia tộc họ Lại “nghè giấy” (bây giờ là cán giấy) cho trơn nhẵn, rồi dùng kim nhũ trang trí bằng những hình rồng bay phượng múa. Lúc đầu giấy sắc chỉ dùng riêng cho triều đình. Dần dà về sau, nhiều nơi đến đặt thợ giấy vùng Bưởi làm để chép gia phả, ngọc phả.

Theo gia phả họ Lại, cụ Tổ Lại Thế Giáp là con rể của chúa Trịnh Tráng. Vợ của cụ Giáp, Quận chúa Từ An thấy họ nhà chồng nghèo đã tâu xin nhà Chúa và vua Lê cho họ Lại được đời đời làm giấy sắc dâng triều đình.

Từ xưa, giấy sắc được coi như “Quốc bảo”, là sản phẩm độc đáo của dòng họ Lại ở làng Nghè. Thông thường, giấy sắc có hai mặt, một mặt vẽ rồng có hình con triện, một mặt vẽ tứ linh. Điều đặc biệt là những nét vẽ đó được phủ bằng vàng và bạc. Vì thế, giấy vừa đẹp, lại vừa quý. Không chỉ vậy, đây là loại giấy dành riêng cho vua chúa dùng để ra sắc phong cho các vị quan lại trong triều, hoặc các vị thần, thành hoàng làng. Bởi lẽ đó, giấy sắc còn là lộc vua, lộc nước.

Kể từ năm 1945, khi triều đại phong kiến chấm dứt, nghề làm giấy sắc cũng gần như không còn tồn tại. Cả dòng họ Lại chỉ còn duy nhất nghệ nhân Lại Phú Bàn là đeo đuổi và giữ nghề. Năm 2005, cụ Lại Phú Bàn về với tổ tiên. Điều may mắn là trước khi mất, cụ còn kịp truyền lại những bí mật của “nghề vua ban” cho cô con gái út là Lại Thu Hà.

Khắc ghi lời dạy bảo của cha, chị Lại Thu Hà một mình tự mày mò, tìm hiểu và lặng lẽ làm cốt để giữ lấy nghề gia truyền. Chị hiểu “nghề vua ban” là niềm tự hào của dòng họ và giấy sắc của họ Lại là “Quốc bảo” qua hàng trăm năm vẫn giữ được vẹn nguyên. Giờ đây, chị vẫn làm mỗi khi có người đặt, thường là người của các đền chùa muốn khôi phục lại các sắc phong cổ, hoặc những danh gia vọng tộc muốn sao lưu sắc phong để thờ. Chị bảo: Đây không phải là nghề để kiếm sống như các cụ xưa mà đơn giản là để giữ lấy nghề Tổ, giữ lấy bí quyết “nghề vua ban” mà cha chị đã đeo đuổi, quyết tâm giữ nghề suốt cả cuộc đời. Bây giờ chị đang gánh trên vai trọng trách ấy, trọng trách giữ nghề cho dòng họ và hơn thế, giữ lấy vốn cổ văn hóa đặc sắc của dân tộc.

Bài và ảnh: GIA LINH