QĐND - Nguyễn Công Thái (1684-1758) hiệu là Thuần Chính, thụy là Trung Mẫn Công, húy là Phấn, tên thường gọi là Nguyễn Công Thể. Ông thuộc đời thứ 6, chi thứ họ Nguyễn Phúc làng Lủ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, TP Hà Nội).

Năm 1715, đời vua Lê Dụ Tông (1679-1731), ông đỗ Tiến sĩ, tên tuổi được khắc trên văn bia tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám. Con đường quan lộ ban đầu của Nguyễn Công Thái khá hanh thông khi ông được triều đình trọng dụng, cử đi làm quan ở nhiều địa phương như: Đốc đồng Hải Dương và Thanh Hóa, Hiến sát sứ ở Nghệ An... Dần dần, ông được thăng chức Tế tửu Quốc Tử Giám, Tả thị lang Bộ Công, Hữu thị lang Bộ Hình, Thượng thư Bộ Lại... Đặc biệt, ông đã 5 lần được bổ nhiệm, giáng chức rồi phục chức Tham tụng và được phong tước là Vinh Lộc Đại phu, Kiều Quận công. Chức Tham tụng tương đương với chức Tể tướng, là chức quan to nhất thời vua Lê-chúa Trịnh.

Là một đại quan nhưng Nguyễn Công Thái sống giản dị, thanh liêm, được dân chúng yêu quý. Dẫn chứng là khi làm trấn thủ Sơn Nam, dân chúng có tặng nhiều quà nhưng ông chỉ nhận một đôi giày để đi đường. Khi làm Tế tửu Quốc Tử Giám, Nguyễn Công Thái đã bỏ tiền riêng giúp đỡ cho nhiều học sinh nghèo, trong đó có người thành Tiến sĩ như Nguyễn Hồ Dĩnh. Khi về hưu, có ruộng vua ban, ông cũng chia cho người trong làng, sống những ngày tháng cuối đời thanh bạch.

Suốt cuộc đời ở chốn quan trường, Nguyễn Công Thái luôn giữ khí tiết của một nhà Nho, được giao bất cứ nhiệm vụ nào cũng đều hoàn thành. Năm 1739, một tù trưởng ở Lạng Sơn là Toàn Cơ nổi loạn, ông được lệnh đi đánh dẹp. Nguyễn Công Thái hoàn thành nhiệm vụ mà không mất một người lính nào vì ông đã dũng cảm tay không thuyết phục tù trưởng quy thuận triều đình. Năm 1740, Nguyễn Công Thái cùng với các đại quan khác đưa chúa Trịnh Doanh lên thay chúa Trịnh Giang vốn ăn chơi trác táng, nhằm cứu vãn triều chính.

Công lao lớn nhất của Nguyễn Công Thái được người đời ghi nhận là một nhà ngoại giao tài tình với việc hai lần đấu tranh đòi lại đất đai mà nhà Thanh lấn chiếm. Lần đầu là khi quân Thanh đóng ở Quảng Tây, nhiều lần đưa người qua biên giới xâm lấn đất đai thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay. Chúa Trịnh Giang liền cử Nguyễn Công Thái lên thương thuyết với nhà Thanh. Trải qua nhiều tháng khảo sát thực địa, so sánh với bản đồ, bằng trí tuệ tuyệt vời, ông đã thuyết phục được quan nhà Thanh trả lại vùng đất chiếm trái phép. Hơn nữa, phía nhà Thanh phải đóng thuế khai thác khoáng sản cho triều đình Đại Việt.

Lần thứ hai, nhà Thanh muốn chiếm mỏ đồng Tụ Long (châu Vị Xuyên, thuộc tỉnh Hà Giang ngày nay). Đứng trước tình trạng căng thẳng, triều đình Lê-Trịnh đã cử Nguyễn Công Thái và Nguyễn Huy Nhuận lên đường thương lượng với người Thanh. Trải qua nhiều ngày trèo đèo, lội suối rất gian khổ và nguy hiểm, hai ông đã tìm đến sông Đổ Chú, lấy đó làm ranh giới, thuyết phục nhà Thanh cắm mốc bằng đá và dựng bia với lời văn hùng hồn: “Lấy mốc sông Đổ Chú làm căn cứ, ngày 18 tháng 9 năm Ung Chính thứ 6 (1728), chúng ta là: Nguyễn Huy Nhuận, Tả thị lang Bộ Binh và Nguyễn Công Thái, Tế tửu Quốc Tử Giám, được triều đình ủy sai, vâng theo chỉ dụ, lập bia đá này”. Như vậy, người Thanh phải trả lại cho ta hơn 40 dặm đất có mỏ đồng Tụ Long rất quý đã chiếm. Việc làm này để lại tiếng thơm cho Nguyễn Công Thái đến muôn đời, sách sử thời Nguyễn chép rằng, vua Tự Đức, nhân xem sử cũ, biết việc làm của Nguyễn Công Thái đã cầm bút châu phê vào bộ chính sử Khâm định Việt sử thông giám cương mục, rằng: “Đạo bầy tôi phải như thế!”

Ghi nhớ công ơn của Nguyễn Công Thái-vị quan tận trung, ái quốc, người dân đã lập nhà thờ ông tại quê nhà. Và vào năm 2010, HĐND TP Hà Nội đã có nghị quyết đặt tên phố Nguyễn Công Thái.

HÀM ĐAN