QĐND - Làng Đại Mỗ, nay thuộc phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội vốn nổi tiếng là làng khoa bảng đất kinh kỳ với nhiều người đỗ đạt suốt các triều đại khác nhau. Một trong những danh nhân nổi bật của làng Đại Mỗ là Tể tướng Nguyễn Quý Đức (1648-1720)-người được tôn thờ là phúc thần, đời đời được nhân dân thờ phụng.
Nguyễn Quý Đức, hiệu là Đường Hiên, tự Thể Nhân, sinh năm 1648 trong một gia đình nhà nho nghèo. Tương truyền, ngay từ nhỏ, Nguyễn Quý Đức đã nổi tiếng là người thông minh, hay chữ, có tài ứng khẩu. Chuyện kể rằng, một hôm Nguyễn Quý Đức gặp một ông quan huyện, hỏi chuyện học hành của Nguyễn Quý Đức, biết cậu bé đã đọc “Luận ngữ”, ông quan huyện liền ra một vế đối, dùng toàn chữ trong “Luận ngữ”: “Thực vô cầu bão, cư vô cầu an, quân tử chí” (Ăn không cần no, ở không cầu yên, say đạo học, đúng chí quân tử). Cậu bé Nguyễn Quý Đức ứng khẩu đưa ra câu đối cũng sử dụng các chữ trong “Luận ngữ”: “Chiêu nhi bất lai, huy nhi bất khứ, xã tắc thần” (Vẫy không chịu lại, xua không chịu đi, phò xã tắc, đáng mặt bầy tôi).
 |
Tranh thờ Tể tướng Nguyễn Quý Đức. Ảnh tư liệu |
Năm 28 tuổi, Nguyễn Quý Đức đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa thời vua Lê Hy Tông. Kể từ đó, con đường thăng tiến trong chính trường của ông khá hanh thông. Ông từng được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh cùng Nguyễn Danh Nho, tả thị lang Bộ Lễ, Bồi tụng ở phủ chúa Trịnh, thăng Đô ngự sử, đỉnh cao là ông giữ chức Thượng thư Bộ binh và sau đó là Tham tụng (Tể tướng) của triều đình Lê-Trịnh. Nhận xét về ông, nhà sử học Phan Huy Chú viết: “Ông là người khoan hậu trầm tĩnh. Ngày thường, tiếp ai thì dễ dàng, vui vẻ. Khi bàn luận trước mặt chúa, việc gì chưa thỏa đáng, ông cố giữ ý kiến mình, bàn đến ba, bốn lần, không ai ngăn được. Ông làm văn không cần trau chuốt mà ý sâu. Triều đình có chế tác gì lớn, phần nhiều do tay ông thảo. Ông làm tể tướng 10 năm, về chính sự chuộng khoan hậu”. Suốt trong quãng đời làm quan, Nguyễn Quý Đức hết sức chăm lo việc nước, giúp dân chúng an vui; thế nên dân gian có câu nói: “Tể tướng Quý Đức, thiên hạ yên tức” (Tể tướng Quý Đức, thiên hạ yên vui). Đặc biệt, Nguyễn Quý Đức là người chỉ huy trùng tu Văn Miếu, ông còn vận động quyên góp thêm để xây dựng lại điện Khải Thánh, nhà tả vu, hữu vu và tạo dựng 21 tấm bia tiến sĩ ghi tên các vị đỗ tiến sĩ từ khoa Bính Thân (1656) đến khoa Ất Mùi (1715). Ngoài ra, ông đã dành 10 mẫu ruộng được triều đình ban cho để tặng dân làng và trích ra bốn mẫu lập chợ Thánh Nguyên, tức chợ Mỗ ngày nay. Nguyễn Quý Đức cũng đã đem lộc điền vua Lê cấp, rồi lại công đức tiền của và đứng ra xây dựng lại chùa Trùng Quang.
Sự nghiệp trước tác và chấn hưng văn học, giáo dục của Nguyễn Quý Đức cũng rất nổi bật. Về thơ, ông có “Thi châu tập”, “Hoa trinh thi tập”... Ngoài ra, ông cùng Lê Hy Toản xem xét và sửa bộ sử cũ, rồi viết tiếp bộ “Đại Việt sử ký bản tục biên”.
Năm 1720, Nguyễn Quý Đức mất ở quê nhà, được triều đình truy tặng là Thái tể, ban tên thụy là Trịnh Mục. Sau lại truy tặng ông là Đại tư không, sắc phong làm Cung thần tuấn đạt định sách Đại vương, và được dân làng thờ làm Phúc thần. Nối nghiệp Nguyễn Quý Đức, con trai ông là Nguyễn Quý Ân (1673-1722) và cháu nội Nguyễn Quý Kính (1693-1766) đều đỗ cao, làm đại quan trong triều đình, có đức cao và có tài trị nước, khi mất đều được truy phong là Phúc thần.
HÀM ĐAN