Tinh hoa nghề giấy quý

Giấy sắc phong có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng dưới các triều đại Lê - Trịnh - Nguyễn. Đây là loại giấy duy nhất làm từ cây dó mà vua dùng ban hành các ý chỉ, sắc phong bách quan, bách thần. Có hai loại sắc phong: Sắc phong chức tước là phong chức, ban khen cho các quan lại, quý tộc, người có công trạng lớn với đất nước; còn ghi nhận công lao to lớn của những anh hùng dân tộc và những vị thần linh trong tín ngưỡng dân gian được thờ cúng tại các đình, chùa gọi là sắc phong thần. Tấm sắc phong mang ấn tín của vua mới có giá trị.

leftcenterrightdel
Ông Lại Phú Quyết Thắng với tấm giấy sắc phong do nghệ nhân Lại Phú Bàn làm. 

Quy trình làm giấy sắc phong vô cùng cầu kỳ, tinh tế. Đầu tiên người nghệ nhân đem vỏ cây dó Thao thuộc vùng Lâm Thao, Phú Thọ ngâm nước lã 3 ngày, ngâm nước vôi 3 ngày rồi nấu liền hai ngày đêm. Dó chín đem bóc vỏ lấy phần thịt, nghè giấy (giã giấy) thật đanh, bóng mịn mới đem seo cho giấy tơi, dai, công đoạn này tốn rất nhiều sức lực, thời gian. Giấy sắc phong khi hoàn thiện có độ mỏng và dai như lụa nhưng độ bền trên 300 năm. Tấm sắc phong lâu đời nhất được tìm thấy có niên đại từ năm 1604, đến nay đã tròn 412 tuổi. Sau khi sấy khô, giấy được phết keo da trâu chống mối mọt và nhuộm bằng nước hoa hoè, đánh vàng, đánh bạc tạo cho tờ giấy có màu vàng tươi hoặc sẫm. Sau cùng, người nghệ nhân sẽ vẽ hoa văn lên giấy bằng loại mực chế tác từ vàng, bạc nguyên chất. Đây là khâu quan trọng nhất thể hiện tinh hoa trí tuệ lẫn sự tinh xảo của người nghệ nhân.

Quy định vẽ hoa văn trên giấy sắc tuỳ theo phẩm trật vua ban. Phong quan tước có 3 loại: Nhất đẳng quan, Nhị đẳng quan, Tam đẳng quan, thường được vẽ các linh vật long, ly, quy, phượng.

Người nghệ nhân giỏi sẽ tạo hình khuôn, tức vẽ “chạy”. Còn những người thợ non tay hơn thì tô kim nhũ, vàng, bạc theo các nét vẽ đó gọi là vẽ “đổ”. Những nét vẽ rồng mây lộng lẫy khi ẩn hiện cùng tứ linh, tinh tú, khi hoà quyện giữa bầu rượu, túi thơ vừa thể hiện quyền uy bậc đế vương, vừa khơi gợi dấu ấn vàng son của vương triều thịnh trị.

Bởi vậy, mỗi tấm giấy sắc phong đều mang ý nghĩa vô cùng thiêng liêng. Thời quân chủ chuyên chế, tấm giấy sắc phong đại diện cho nhà vua, nhìn thấy sắc chỉ như nhìn thấy vua, quần thần tiếp chỉ đều phải quỳ gối kính lạy. Ngày nay, giấy sắc phong là loại cổ vật rất giá trị không chỉ vì có tính độc bản, lưu giữ những tư liệu lịch sử quý giá mà còn chứa đựng câu chuyện của cả một làng nghề độc nhất vô nhị.

Vang bóng một thời “Họ Lại làm giấy sắc vua”

Kim Tiên Lại tộc là tước hiệu vua Lê Thần Tông ban cho dòng họ Lại ở Nghĩa Đô - dòng họ duy nhất 17 đời liên tiếp làm giấy sắc phong. Cuốn Hà Nội - Danh thắng và Di tích (tập 1) do Nhà xuất bản Hà Nội ghi lại rằng: Thời Lê Trung Hưng, khi Thái Sơn hầu Lại Thế Giáp (đời thứ 12 thuộc gia tộc họ Lại gốc ở Thanh Hoá) kết hôn với quận chúa Phi Diệm Châu, hiệu Từ An - con gái chúa Trịnh Tráng. Thấy họ nhà chồng còn nghèo nên bà đã xin chúa Trịnh và vua Lê cho họ Lại ở làng Nghè (Nghĩa Đô ngày nay) được làm giấy sắc chuyên cung cấp cho triều đình, phục vụ nhà vua phong cấp cho bách quan, bách thần. Nhưng phải đến 4 đời sau cụ Lại Thế Giáp, nhà họ Lại mới có được tờ giấy sắc chất lượng hoàn hảo. Thời đó triều đình trả một đồng Đông Dương (tương đương một lượng vàng) cho một tờ giấy sắc. Đến năm 1945 vua Bảo Đại thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ, không ai còn dùng giấy sắc khiến nghề làm giấy cao quý dần mai một.

leftcenterrightdel
Bảng xếp hạng di tích Quốc gia nhà thờ tổ nghề làm giấy sắc, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. 

Năm 2003, một cuộc hội thảo về nghề giấy sắc phong được tổ chức tại Hà Nội với sự tham gia của nhiều chuyên gia đến từ các nước như Nhật Bản, Trung Quốc… Họ đã thừa nhận rằng độ bền giấy sắc phong họ Lại Nghĩa Đô bền gấp đôi giấy Long Ám của Trung Quốc hay giấy Long Đằng của Nhật Bản. Thậm chí họ đặt vấn đề muốn mua lại bí nghiệp họ Lại nhằm phục hưng nghề giấy quý. Lẽ dĩ nhiên các trưởng lão trong họ không chấp nhận, bởi đó là niềm tự hào của dòng họ, là tài sản quý báu của người Việt.

Đã có lúc tưởng chừng nghề làm giấy sắc sống lại bởi những người am hiểu về giấy thường tìm đến cụ Lại Phú Bàn đặt mua, hay phục chế giấy bị cũ, mòn. Bấy giờ cụ là người duy nhất giữ lửa nghiệp tổ. Đáng buồn thay, do tuổi cao sức yếu cụ Lại Phú Bàn đã tạ thế vào cuối năm 2006 khi chưa có người nối nghiệp. Chắc hẳn người nghệ nhân tài hoa, tâm huyết như cụ ra đi nhưng vẫn mang nhiều trăn trở về sự sống - còn nghề giấy tiến vua làm rạng danh dòng họ. Những bí quyết của nghề làm giấy sắc đã được ghi chép bằng văn bản và được Cục Di sản (Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) lưu giữ.

Ông Lại Phú Quyết Thắng, trưởng ban đại diện dòng họ chia sẻ đầy tiếc nuối: “Bây giờ ít ai hiểu hết giá trị tấm giấy sắc. Nghiệp tổ của chúng tôi không thể tồn tại nếu có cung mà chẳng có cầu. Con cháu họ Lại sau này buộc phải theo nghề khác phù hợp với kinh tế thị trường. Giá như Nhà nước sử dụng giấy sắc thay cho các bằng khen, giấy khen cấp Quốc gia loại thường thì tốt biết mấy. Bởi giấy sắc có độ bền bỉ lên đến hàng trăm năm. Chúng tôi vẫn luôn mong chờ sự quan tâm của Nhà nước, các cấp chính quyền tạo điều kiện, giúp đỡ chúng tôi phục hưng lại nghề quý của tổ tiên nói riêng, của dân tộc nói chung”.

Giấy sắc phong họ Lại là đỉnh cao nghệ thuật làm giấy của Việt Nam. Mỗi tờ giấy sắc phong chứa đựng tâm huyết, tài hoa người nghệ nhân, mang đậm giá trị nghệ thuật, có ý nghĩa lịch sử lớn. Một nghề truyền thống đẹp và cao quý như vậy cần được gìn giữ, phát triển. Không biết đã, đang có bao nhiêu nghề truyền thống bị mai một. Nếu không sớm có biện pháp giải quyết điều này, có lẽ những tấm bằng chứng nhận Di tích lịch sử Quốc gia cho nhà thờ Kim Tiên Lại tộc sẽ mãi chỉ là tấm bia vang bóng một làng nghề thủ công truyền thống đã thất truyền, là bằng chứng mảnh đất Thăng Long - Kẻ Chợ đã mất dần nét đẹp ngàn năm văn hiến.

Bài, ảnh: HÀ PHAN