Tương truyền, chùa Hoằng Ân là một am thờ Phật được xây từ thời Lý, đến thời Lê bắt đầu được dựng thành chùa do công Chính phi Nguyễn Thị Ngọc Tú. Bà là cháu gái của An Thành Hầu Nguyễn Kim, người có công trung hưng nhà Lê chống nhà Mạc; con gái Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng, tức chúa Tiên, vị chúa Nguyễn đầu tiên trấn thủ đất Thuận Hóa, mở ra công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt. Vua Gia Long sau khi lên ngôi suy tôn Nguyễn Kim là Tĩnh Hoàng đế, Nguyễn Hoàng là Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế.

Ở thời kỳ đầu hòa thuận, hai họ vốn kết tình thông gia. Chị gái chúa Nguyễn Hoàng là Nguyễn Thị Ngọc Bảo vốn lấy vị chúa Trịnh đầu tiên là Trịnh Kiểm, sinh ra chúa Trịnh Tùng. Ở giai đoạn chúa Nguyễn còn lép vế đã sử dụng hôn nhân để tránh bị nghi ngờ cát cứ lãnh thổ riêng, vì thế công chúa Nguyễn Thị Ngọc Tú được gả cho người kế vị ngôi chúa là Trịnh Tráng, con chúa Trịnh Tùng. Xét về vai vế họ hàng thì Trịnh Tráng phải gọi công chúa Ngọc Tú là... cô họ.  

leftcenterrightdel
Vẻ đẹp cổ kính của chùa Hoằng Ân.

Nhờ mối quan hệ này nên chùa Hoằng Ân thờ Nguyễn Kim và Nguyễn Hoàng trong bối cảnh Trịnh-Nguyễn phân tranh mà không hề gặp cản trở. Năm 1821, nhân chuyến tuần du ra Bắc, vua Minh Mạng đã đến thăm chùa, lúc này chùa được đổi tên thành Sùng Ân tự. Năm 1841, vua Thiệu Trị đến thăm chùa Sùng Ân, cho tu sửa và đổi thành chùa Hoằng Ân như ngày nay.

Từ thập niên 1960, chùa là trung tâm đào tạo tăng lữ miền Bắc với các tên gọi: Trường tu học Phật pháp Trung ương, Trường Cao cấp Phật học Trung ương. Chùa có nhiều vị trụ trì giữ ngôi vị hàng đầu của Phật giáo Việt Nam nhiều thời kỳ, đặc biệt có hòa thượng Thích Đức Nhuận là Đệ nhất Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Về kiến trúc chùa, Thượng tọa Thích Đạo Minh, trụ trì chùa cho biết: “Mặt chùa nhìn về hướng tây nam, chùa chính gồm tiền đường và hậu cung: Có 5 gian lợp ngói, bờ nóc và bờ dài chạy thẳng, chính giữa đắp hổ phù đội mặt trời. Phía trước hiên là hai cột trụ trên nóc đắp hình búp sen. Gian giữa có hệ thống cửa bức bàn. Các mảng chạm kỹ lưỡng với những mảnh chạm điển hình nơi xứ Huế. Nền chùa và hậu cung được lát gạch Bát Tràng. Hậu cung 3 gian xây liền với tiền đường, tạo cho chùa chính có dạng chuôi vồ. Ngôi chính điện này trước đây được xây trên gò tam cấp, đến nay vẫn còn nguyên vẹn, chưa có sửa chữa gì”.

Hiện nay, chùa Hoằng Ân lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị lịch sử quý giá, gồm: Hai quả chuông đồng được đúc năm 1743, thời vua Lê Hiển Tông, chuông to cao 1,5m, đường kính 0,8m, trên vai chuông khắc nổi 4 chữ Hán “Long Ân Tự chung” và chuông nhỏ được đúc vào thời Nguyễn; 33 tấm bia từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 20; 30 pho tượng có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20. Bên cạnh đó còn có 3 pho tượng quý: Tượng bà Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Kim và Nguyễn Hoàng.

Đến vãn cảnh chùa Hoằng Ân, rảo bước trên con đường nhỏ uốn lượn, hai bên vườn quất cảnh được tỉa theo những thế công phu, nhìn ra Hồ Tây mênh mông sương mù, ta sẽ cảm nhận được văn hóa Thăng Long từ ngàn xưa đang hiện hữu trên từng tấc đất của làng cổ Quảng An.

Bài và ảnh: LƯU HÀ - CHÍ CÔNG